Lâm Đồng và Tuyên Đức trong mùa Xuân đại thắng 1975
(LĐ online) - 50 năm trước (1975 - 2025), với sự chuẩn bị chu đáo, ý chí kiên cường và những hy sinh anh dũng, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Lâm Đồng, Tuyên Đức đã góp phần quan trọng tạo nên mùa Xuân đại thắng, khắc ghi dấu ấn vinh quang trong dòng chảy lịch sử dân tộc.
Dân công Lâm Đồng phục vụ tiền tuyến. Ảnh tư liệu
SỤC SÔI KHÔNG KHÍ CHUẨN BỊ CỦA ĐẢNG BỘ, QUÂN VÀ DÂN LÂM ĐỒNG, TUYÊN ĐỨC
Ngày 6 /1/1975, chiến thắng giải phóng thị xã Phước Long đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Nhân dân ta. Không chỉ làm thay đổi cục diện chiến trường, mà còn tiếp thêm niềm tin, sức mạnh cho cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam. Chính chiến thắng này đã tạo động lực lớn cho các tỉnh miền Đông Nam Bộ, trong đó có Lâm Đồng và Tuyên Đức.
Dưới sự chỉ đạo của Khu ủy Khu 6, Tỉnh ủy Lâm Đồng và Tỉnh ủy Tuyên Đức, các kế hoạch hành động đã được khẩn trương triển khai. Cả hai tỉnh xác định rõ ràng mục tiêu chủ động tấn công địch, phối hợp chặt chẽ với các chiến trường khác và chuẩn bị lực lượng để tham gia cuộc nổi dậy giành chính quyền, kết thúc chiến tranh.
Ở Lâm Đồng, những ngày chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng quê hương là thời điểm huy động toàn bộ sức lực của toàn quân và dân. Hơn 2.500 người dân từ căn cứ phía Bắc đã cùng nhau làm con đường kéo pháo dài 30 km từ dốc Con Ó đến B’Trú, phục vụ cho cuộc tấn công giải phóng thị xã B’Lao. Đây là minh chứng sống động cho tinh thần đoàn kết, vượt khó, khẩn trương chuẩn bị của quân và dân các dân tộc Lâm Đồng.
Cùng lúc, Cơ sở sản xuất Công Doanh của tỉnh đã tăng cường sản xuất, đóng góp hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm để nuôi dưỡng các đơn vị chủ lực và Nhân dân trong tỉnh. Những đóng góp này không chỉ là vật chất, mà còn là biểu tượng của tinh thần đồng lòng, quyết tâm chiến thắng kẻ thù, giải phóng quê hương.
Tại các vùng địch kiểm soát, các đảng viên, các lực lượng nội thành, lực lượng cảm tình… đã không quản ngại gian khổ, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy giành chính quyền và bảo vệ các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp… Nhân dân trong vùng địch tạm chiếm sẵn sàng đứng lên, mang theo niềm tin vào chiến thắng, tham gia cùng lực lượng chủ lực để giành lại chính quyền.
Trước những thay đổi nhanh chóng, Tỉnh ủy Tuyên Đức dù phải điều chỉnh các kế hoạch chiến đấu, nhưng vẫn đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, góp phần quyết định vào chiến thắng chung. Thị ủy Đà Lạt đã chỉ đạo các cơ sở bên trong nội thành chuẩn bị kỹ lưỡng để phối hợp với lực lượng chủ lực, sẵn sàng giải phóng thành phố.
Sự chuẩn bị chu đáo từ mọi mặt đã giúp công cuộc giải phóng Đà Lạt diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. Đà Lạt, với vẻ đẹp thơ mộng và yên bình, lúc n đã trở thành biểu tượng của tinh thần cách mạng, sục sôi không khí chuẩn bị cho ngày chiến thắng.
Cờ Mặt trận Giải phóng tung bay trên cột cờ Thị xã B’Lao. Ảnh tư liệu
CHỚP THỜI CƠ, TIẾN CÔNG THẦN TỐC, GIẢI PHÓNG LÂM ĐỒNG VÀ TUYÊN ĐỨC
Ngày 25/3/1975, với chiến thắng tại Gia Nghĩa và Quảng Đức, bộ đội chủ lực Miền đã làm tan rã đội quân địch, tạo ra hiệu ứng dây chuyền làm cho quân địch ở các khu vực khác tại Lâm Đồng hoang mang, rối loạn. Các chiến thắng này không chỉ có ý nghĩa chiến thuật mà còn có giá trị tinh thần vô cùng lớn. Nhân dân ở các vùng vừa giải phóng cũng dần rời các “ấp chiến lược” quay về buôn làng, xóm ấp cũ, nối lại nhịp sống hòa bình, mà trên hết là họ cảm nhận được mùi vị của tự do, của một tương lai tươi sáng.
Đặc biệt, cuộc tiến công giải phóng thị xã B’Lao đã trở thành một chiến thắng mang tính biểu tượng. Sau khi giải phóng Đạ Huoai vào ngày 27/3, sáng ngày 28/3/1975, lực lượng Quân Giải phóng đã nhanh chóng áp sát B’Lộc. Chỉ trong vài giờ, lực lượng bộ binh và xe tăng của ta đã chiếm lĩnh hoàn toàn thị xã, giải phóng vùng đất này khỏi sự kìm kẹp của quân địch.
Vào lúc 9h00, cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tung bay trên cột cờ Tòa tỉnh trưởng, đánh dấu mốc quan trọng của một thời kỳ mới, khẳng định sự chiến thắng của chính nghĩa. Tiếp đó, vào 11h00, quận lỵ Di Linh cũng được giải phóng, và đến cuối ngày, Lâm Đồng hoàn toàn vào tay Quân Giải phóng. Đà Lạt – Tuyên Đức chính thức bị cô lập, mở ra con đường dẫn đến chiến thắng cuối cùng.
Ngày 2/4/1975, sau khi giải phóng La Ngà, Định Quán, Trung đoàn 141 và các đơn vị của Sư đoàn 7 tiếp tục hành quân lên Đạ Huoai, Bảo Lộc, Đà Lạt. Cùng lúc, lực lượng địa phương đã nhanh chóng chiếm lĩnh và làm chủ thị trấn Tùng Nghĩa, quận lỵ Đức Trọng. Những chiến thắng liên tiếp này đã chứng minh sự chỉ đạo chiến lược tài tình của Khu ủy Khu 6 và Tỉnh ủy Lâm Đồng, Tỉnh ủy Tuyên Đức.
Nhân dân Đà Lạt mít tinh mừng giải phóng, ngày 3-4-1975. Ảnh tư liệu
Ngày 3/4/1975, khi quân ta tiến vào tiếp quản Đà Lạt, cờ cách mạng đã tung bay trên Khu Hoà Bình – trung tâm Đà Lạt, nơi đã được lực lượng nội thành chuẩn bị từ một ngày trước, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ Việt Nam Cộng hòa. Đây không chỉ là chiến thắng quân sự vang dội, mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về mặt chính trị và xã hội. Người dân Đà Lạt, vốn đầy căm phẫn trước sự tham nhũng và dối trá của chế độ Sài Gòn, nay đã có cơ hội bắt đầu một cuộc sống mới, bình yên và tự do.
Sau một tuần (từ 27/3 đến 3/4/1075), cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân hai tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức đã giành chiến thắng vang dội. Từ đây, Lâm Đồng và Tuyên Đức được nối liền với Quảng Đức, Phước Long, tạo thành một vùng đất rộng lớn kết nối Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, hình thành nên một gọng kìm ép Sài Gòn từ hướng Đông và Đông Bắc.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Khu ủy Khu 6 và Tỉnh ủy hai tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức, cùng sự chi viện mạnh mẽ của các đơn vị bộ đội chủ lực Miền và Quân khu 6, quân và dân hai tỉnh đã tiêu diệt hơn 27.000 tên địch, giải phóng hơn 300.000 người dân, đồng thời thiết lập chính quyền cách mạng ở tất cả các cấp. Những chiến công này đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng chung của dân tộc.
Đặc biệt, sự tham gia của Nhân dân và lực lượng địa phương trong suốt cuộc kháng chiến là một yếu tố không thể thiếu, giúp củng cố và làm sâu sắc thêm chiến thắng này. Các cơ sở cách mạng tại chỗ, dù trong điều kiện khó khăn nhất, vẫn kiên cường bám trụ, bảo vệ những giá trị của cách mạng, bảo vệ tinh thần đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
Lâm Đồng đón nhận Huân chương Sao vàng ngày 3/4/1985. Ảnh tư liệu
Ngày đất nước được giải phóng, những hy sinh lớn lao của quân và dân các tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức đã mang lại thành quả vô cùng xứng đáng. Đảng và Nhà nước đã ghi nhận những đóng góp to lớn của họ bằng các phần thưởng cao quý; trong đó' có 1 Huân chương Sao vàng, 2 Huân chương Hồ Chí Minh, 10 Huân chương Thành đồng, 3 Huân chương Quân công; 27 đơn vị và 13 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Những phần thưởng này không chỉ là sự công nhận công lao, mà còn là minh chứng cho sức mạnh đoàn kết, ý chí quật cường và sự kiên định của nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Đại thắng mùa Xuân 1975 là mốc son vĩ đại trong lịch sử dân tộc, mở ra kỷ nguyên hòa bình, thống nhất và phát triển. Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Lâm Đồng, Tuyên Đức đã viết nên bài học sâu sắc về lòng kiên trì, sự hy sinh và quyết tâm chiến đấu vì mục tiêu thống nhất đất nước.
Chiến thắng này không chỉ là chiến công quân sự vĩ đại mà còn là biểu tượng cho sức mạnh của lòng dân, ý chí kiên cường và tinh thần đoàn kết của quân và dân tỉnh nhà. Những hy sinh và chiến công trong mùa Xuân đại thắng sẽ mãi là nguồn cảm hứng cho các thế hệ mai sau, tiếp tục xây dựng một Việt Nam vững mạnh, sẵn sàng cùng dân tộc bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Trước năm 1975, Lâm Đồng bao gồm hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức. Tuyên Đức hiện nay tương ứng với thành phố Đà Lạt và các huyện Đức Trọng (trừ xã Ninh Gia), Đơn Dương, Lạc Dương, Đam Rông và một phần huyện Lâm Hà, với thủ phủ đặt tại Đà Lạt. Tỉnh Lâm Đồng là các khu vực còn lại của Lâm Đồng ngày nay, gồm 2 quận B’Lao (nay là Bảo Lộc) và Di Linh, tỉnh lỵ đặt tại B’Lao.
Từ tháng 2/1976, tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức đã được hợp nhất thành tỉnh Lâm Đồng. Trong kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975), Lâm Đồng và Tuyên Đức trực thuộc sự chỉ đạo Khu ủy Khu 6 và Tỉnh ủy hai tỉnh.
PHAN VĂN BÔNG