Phong trào đấu tranh chính trị của thanh niên, sinh viên, học sinh nội thành Đà Lạt 1969 - 1975
Hồi ký: TRỌNG HOÀNG 11:38, 29/03/2025
BÀI 1. NHỮNG CUỘC TẬP DỢT
(LĐ online) - Sau Tết Mậu Thân 1968, các cán bộ nội thành và cơ sở mật bị truy lùng quyết liệt, nhiều anh em đã thoát ly ra căn cứ kháng chiến, phong trào tạm lắng xuống, những người chưa bị lộ, những thanh niên sinh viên học sinh (TNSVHS) có tư tưởng tiến bộ hoạt động trong các tổ chức công khai hợp pháp, tham gia ứng cử nắm giữ các vị trí chủ chốt của các tổ chức công khai hợp pháp như Đoàn Sinh viên Phật tử (SVPT), Ban đại diên các trường Khoa học, Văn khoa, Sư phạm, Chính trị kinh doanh, các nhóm ái hữu (đồng hương) như Phú Yên, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Rong biển (Nha Trang), Bình Định, Quảng Trị…
Tổ chức các đợt công tác xã hội, các hoạt động văn hóa văn nghệ thể thao, picnic, xuất bản báo chí như đặc san, nguyệt san… để tập họp lực lượng, thâm nhập trò chuyện, nắm bắt tư tưởng, khuyến khích những tư tưởng tiến bộ, nêu những vấn đề về dân sinh dân chủ khơi dậy lòng yêu nước chọn người tích cực làm nòng cốt để nuôi phong trào từ thấp đến cao. Đặc biệt là kể từ sau đêm 27/12/1969 tại Trường Đại học Nông lâm súc Sài Gòn, SVHS Miền Nam đã ra mắt chính thức phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe” rực lửa trong vòng vây của cảnh sát Sài Gòn. Phong trào này đã lan nhanh, mạnh đến hầu hết các trường học ở các đô thị Miền Nam. Có thể nói hiệu quả, sức hút của phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe” là vô cùng lớn.
Ở Đà Lạt phong trào du ca đã chuyển sang nhạc tranh đấu khá hấp dẫn và thu hút đông đảo TNSVHS vào các tổ chức công khai biến tướng, những bài hát tranh đấu đã đun sôi nhiệt huyết tuổi trẻ Đà Lạt. Những ca khúc “Hát cho dân tôi nghe”, “Dậy mà đi” và nhiều ca khúc trong tập “Hát cho đồng bào tôi nghe” đã vang lên sôi sục từ trên giảng đường đại học, đến các trường trung học trong các buổi hội thảo ra đến Thung lũng Tình yêu, thác Prenn, trên những rừng thông, bên những thác đồi trong các buổi đi picnic của TNSVHS, cùng với một số ca khúc tiến bộ của Trịnh Công Sơn như “Nối vòng tay lớn”, “Huế Sài Gòn Hà Nội”... đã trở thành một trào lưu của tuổi trẻ một thời.
Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt là một tổ chức công khai hợp pháp dưới chế độ Sài Gòn trước 1975. Thị ủy Đà Lạt đã khéo léo cắm được người vào Ban Chấp hành để nắm và điều hành hoạt động của đoàn. Từ đây đã đưa nhiều đoàn viên, cảm tình cách mạng thâm nhập vào các tổ chức của Trường Đại học Đà Lạt và các trường trung học trong thành phố.
Trong ảnh: Có 4 đoàn viên TNNDCMMN đang nắm các vị trí trong đoàn SVPT Đà Lạt gồm: Hàng ngồi từ trái sang: Trương Trổ, Tổng thư ký; Nguyễn Trọng Hoàng Q. Chủ tịch. Hàng đứng: Nguyễn Hòa (thứ 2 từ trái sang), Phan Ngọc Mậu (thứ tư). Ảnh: Tư liệu
Sau chiến dịch TK 1970, lực lượng nội thành một lần nữa bị truy lùng đánh phá, nhưng lớp trước ra đi, thì lớp sau lại tiếp tục được gầy dựng. Đầu năm 1970, sinh viên Viện Đại học Đà Lạt đã đấu tranh chống đàn áp SVHS, đòi trả tự do cho Huỳnh Tấn Mẫm (Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đang bị tù đày), tẩy chay chế độ quân sự học đường, đốt Văn phòng, đốt hình nộm quân sự học đường, chống sưu cao thuế nặng, tẩy chay văn hoá đồi truỵ, nô dịch… Mở đầu sự kiện này là cuộc hội thảo tại Viện Đại học Đà lạt do đoàn SVPT Đà lạt đứng ra tổ chức với chủ đề “Sinh viên hiện nay trước hiện tình đất nước” do Giáo sư Lý Chánh Trung là Giáo sư của Đại học Sài Gòn và Đại học Đà Lạt thuyết trình.
Bên cạnh đó, công tác vận động trí thức cũng được chú trọng, chúng ta đã phát triển nhiều cơ sở, cảm tình cách mạng trong đội ngũ giáo chức, văn nghệ sĩ và giới chức sắc Phật giáo làm nòng cốt vận động thành lập các tổ chức công khai do các nhân sĩ trí thức tiến bộ, thậm chí là người có thế lực với nhà cầm quyền nhưng có tư tưởng bất mãn chế độ hoặc có nhận thức gần gũi với tự tình dân tộc, mà ta nắm và chi phối được đứng tên chủ trì nhằm tập họp lực lượng đấu tranh với địch như: “Mặt trận Nhân dân Tranh thủ Hoà bình”, phong trào “Phụ nữ Đòi quyền sống”, “Mặt trận Bảo vệ Văn hoá Dân tộc”, “Uỷ ban Đòi cải thiện chế độ lao tù”, “Mặt trận cứu đói”, “Tổng đoàn Học sinh Đà Lạt”… Những tổ chức này ra đời vào năm 1971, đó là những tổ chức công khai hợp pháp với chế độ Sài Gòn, nhưng lại là những tấm bình phong che chắn rất tốt cho các đồng chí của ta hoạt động bí mật trong lòng đô thị. Vừa ra đời các tổ chức này đã tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống độc diễn ngày 03/10/1971. Riêng Tổng đoàn Học sinh được thành lập ngay trong những ngày thành phố sôi sục xuống đường.
Trong nhiệm vụ đấu tranh nghị trường, thông qua Đội Công tác TNSVHS, Thị ủy đã chỉ đạo lực lượng nội thành tiến hành các cuộc vận động bầu cử ủng hộ cho người của ta hoặc những nhân vật có tinh thần dân tộc ứng cử và đắc cử vào các cơ quan dân cử của hệ thống chính quyền Sài Gòn như dân biểu Đinh Văn Đệ (ứng cử viên Hạ Nghị viện), nghị viên Huỳnh Văn Chùm (ứng cử vào Hội đồng Thị xã)… Thông qua đoàn SVPT, lực lượng bí mật nội thành đã vận động các các khuôn hội, sinh viên và đồng bào Phật tử đã góp một phần quan trọng giúp cho các nhân vật trên trúng cử, mang tiếng nói tiến bộ, tiếng nói đối lập đến với các diễn đàn chính trị trong lòng địch. Trong đó, lực lượng nội thành đã tham gia vận động Nhân dân Đà Lạt dồn phiếu ủng hộ ông Đinh Văn Đệ, một nhà tình báo chiến lược của ta trúng cử vào quốc hội Sài Gòn, sau đó ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Hạ nghị viện (lúc ấy chúng tôi làm theo sự chỉ đạo của Thị ủy Đà Lạt mà không biết ông ấy là người của ta, sau giải phóng mới được biết).
Sinh viên liên Viện Đại học Sài Gòn - Huế - Cần Thơ – Vạn Hạnh và Đại học Đà Lạt tổ chức hội thảo tại hồ Than Thở trong chương trình Đại hội SVPT Miền nam tại Đà Lạt năm 1970
Đội Công tác xã hội của Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt – một tổ chức công khai do Chi đoàn SVHS nội thành Đà Lạt chi phối – trong một đợt công tác tại Trường Tiểu học Hà Đông (1973). Trong Đội Công tác xã hội có 4 Đoàn viên và cơ sở bí mật được bố trí tham gia làm nòng cốt: Hàng đứng thứ hai (phải sang): Thanh Phương; Hàng ngồi từ thứ hai (phải sang): Nguyễn Quang Nhàn, Nguyễn Hòa, Trương Trổ. Ảnh: tư liệu
Trên mặt trận văn hoá, lực lượng nội thành đã đẩy mạnh các hoạt động báo chí, văn nghệ, nắm Ban Biên tập của các tờ báo Tin tưởng (Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt), Tiếng gọi Học sinh (Tổng đoàn Học sinh), Tiếng nói Nhân dân Đà Lạt – Tuyên Đức (của Mặt trận Nhân dân Tranh thủ Hòa bình), Hương Quảng Ngãi (Hội đồng hương Quảng Ngãi)… xuất bản định kỳ, đưa các bài viết về hiện tình đất nước, về tình yêu quê hương dân tộc, lồng ghép các nội dung phản đối chiến tranh, phản đối “Quân sự học đường”, kêu gọi hưởng ứng phong trào đấu tranh của SVHS đô thị miền Nam, lên án các hành động đàn áp, bắt bớ SVHS…
Bên cạnh đó Đoàn SVPT đã cho in ấn, phát hành các tập bài hát “Hát cho đồng bào tôi nghe”, “Quê hương đứng dậy”, thành lập các nhóm văn nghệ, tổ chức những đêm không ngủ với chủ đề “Đốt đuốc lên để soi rõ mặt quân thù”, tổ chức nhiều hoạt động xã hội đến các thôn ấp ven Đà Lạt. Có thể nói những hình thức và nội dung trên có sức cuốn hút khá mạnh mẽ đối với TNSVHS, đi từ những họat động vui chơi hấp dẫn đến những thông tin mới lạ, những sự thật của cuộc chiến khác với những thông tin thiếu sự thật được nhai đi nhai lại nhàm chán trên đài Sài Gòn dần nâng lên thành nhận thức mới dẫn tới ý thức chính trị.
Từ ngày 27 đến 29/12/1970, Đoàn SVPT Đà Lạt đã phối hợp với Đoàn SVPT các trường đại học toàn miền Nam gồm: Đại học Sài Gòn; Đại học Vạn Hạnh; Đại học Cần Thơ và Đại học Huế tổ chức Đại hội Sinh viên Phật tử Miền Nam Việt Nam tại Giảng đường Chùa Linh Sơn Đà Lạt (bên cạnh văn phòng Đoàn SVPT Đà Lạt và Trường trung học Bồ Đề). Phải mất khá nhiều thời gian đấu lý với nhà cầm quyền Tuyên Đức - Đà Lạt về nội dung tấm bandroll treo trước cửa hội trường từ trên cao mà đi dưới phố vẫn nhìn thấy rõ. Họ yêu cầu thay nội dung “ĐẠI HỘI SINH VIÊN PHẬT TỬ MIỀN NAM VIỆT NAM” bằng câu “ĐẠI HỘI SINH VIÊN PHẬT TỬ VIỆT NAM” với lý lẽ “Các bạn đang sống và học tập dưới chính thể VNCH, là một quốc gia độc lập hẳn hoi”. Nhưng sinh viên thì cho là “Bất cứ người Việt Nam nào cũng đều biết đây chỉ là miền Nam Việt Nam, chỉ là nửa nước Việt Nam thân yêu mà thôi”, và trong ý thức họ muốn dùng chữ “miền Nam Việt nam” để nghe cho nó gần gũi với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Cuối cùng bị buộc Đoàn SVPT Đà Lạt phải chấp nhận nhưng anh em đối phó bằng cách chỉ gỡ 2 chữ “Miền Nam” mà vẫn để nguyên khoảng cách và dấu vết 2 chữ MIỀN NAM khá rõ trên tấm bandroll đem treo lên trên cao trước cửa hội trường, nhìn lạ lẫm nhưng thú vị.
Tin tưởng – Tiếng nói của Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt, là tờ báo chuyển tải nội dung đấu tranh chính trị, thúc giục tinh thần yêu nước của thanh niên, sinh viên, học sinh Đà Lạt
Máy quay Ronéo của Văn phòng Đoàn SVPT Đà Lạt đã được sử dụng để in ấn báo chí, văn bản, bài hát phục vụ cho phong trào đấu tranh chính trị của TNSVHS nội thành Đà Lạt. Máy hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng.
Đại hội chia làm nhiều tổ đến các trường trung học nói chuyện, hội thảo và ca hát… Những lời ca tranh đấu được hát vang trên đường đi tới các trường, các điểm tham quan. Đêm văn nghệ diễn ra tại hội trường có hàng ngàn TNSVHS tham dự ngồi, đứng chật cả trong và ngoài hành lang, quan khách gồm có các thầy của Giáo hội Phật giáo tỉnh và Đại tá Tỉnh trưởng Nguyễn Hợp Đoàn cùng một số quan chức tùy tùng. Độc đáo nhất là 2 tiết mục của đoàn Sài Gòn “Tiếng trống hào hùng” ca ngợi những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm phương Bắc của dân tộc ta thật là trầm hùng, đầy hào khí; và hoạt cảnh “Thảm sát Mỹ Lai” tái hiện trận lính Mỹ đã giết chết trên 500 người dân ở một vùng quê tỉnh Quảng Ngãi gồm toàn phụ nữ, người già và trẻ nhỏ. Với những tiếng súng nổ chát chúa, những xác người ngã chồng lên nhau, những tiếng thét kinh hoàng xuyên thấu vào tim, đã kích động lòng người làm bật lên những tiếng hô “đả đảo quân giết người” của hàng ngàn SVHS làm chột dạ các quan chức chính quyền. Tỉnh trưởng Nguyễn Hợp Đoàn đã bỏ ra về không một lời chào lịch sự. Kết thúc đại hội mà thực chất là một đợt biểu thị ý thức chính trị của tuổi trẻ trường học miền Nam, Đại hội đã ra tuyên ngôn gồm 9 điểm khá mạnh mẽ có nội dụng tiệm cận tuyên bố 7 điểm của bà Nguyễn Thị Bình mà báo chí trong và ngoài nước thời bấy giờ đã rầm rộ đưa tin và bình luận, các điểm quan trọng nhất được ghi nhận như:
- Điểm 3: Sự hiện diện của Mỹ và đồng minh của họ tại miền Nam Việt Nam là sự nối tiếp con đường xâm lăng của Pháp tại Đông Dương trước đây.
- Điểm 4: Những nhà cầm quyền kế tiếp tại miền Nam Việt Nam không thực sự đại diện cho nhân dân miền Nam Việt Nam mà chỉ dựa vào thế lực ngoại bang để tồn tại.
- Điểm 6: Toàn quân đội ngoại quốc phải rút tức khắc, vô điều kiện ra khỏi miền Nam Việt Nam để nhân dân miền Nam Việt Nam giải quyết cuộc chiến trên tinh thần dân tộc tự quyết.
- Điểm 7: Phải có một Chính phủ đại diện đa số nhân dân miền Nam Việt Nam trước khi tổng tuyển cử để nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định chế độ chánh trị của mình.
- Điểm 9: Kêu gọi các đoàn thể chính trị, đồng bào, sinh viên học sinh trong và ngoài nước hành động tích cực nhằm chấm dứt chiến tranh để đem lại hòa bình, thống nhất, độc lập cho Việt Nam…
Buổi chia tay đầy lưu luyến và hứa hẹn thống nhất hành động giữa các trường Đại học miền Nam. Họ trao nhau lưu bút phần lớn gửi cho nhau những câu tâm huyết: “American go home!” (Mỹ cút về nước!), “Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập muôn năm” hoặc “Mình tự hào về bạn, hẹn gặp nhau trên đường tranh đấu!” và có cả những lá thư tình gửi vào lưu bút của ai đó...
Thực sự khẩu hiệu đấu tranh đã được nâng cao trong tình hình mới. Đại hội đã thổi một làn gió mới nung nấu thêm tinh thần tranh đấu cho tuổi trẻ và đồng bào trên thành phố cao nguyên này. Cuộc tập dợt đã làm xuất hiện những nhân tố tích cực, đã kết nối được sự chỉ đạo của Thị ủy vào phong trào tuổi trẻ thành phố, tổ chức bí mật trong TNSVHS Đà Lạt dần hình thành.
Bài 2: Xuống đường
(LĐ online) - Năm 1971, chính quyền Miền Nam ráo riết chuẩn bị cho cuộc bầu cử Tổng thống Việt Nam Cộng hoà. Nguyễn Văn Thiệu tìm mọi cách gạt tất cả các đối thủ để không có bất cứ liên danh nào đủ tiêu chuẩn, điều kiện ra tranh cử, chỉ còn lại độc nhất một liên danh Nguyễn Văn Thiệu - Trần Văn Hương lấy tên liên danh “Dân chủ” ra ứng cử mà thôi. Nhân dân Miền Nam và báo chí gọi đó là “trò hề độc diễn của Nguyễn Văn Thiệu”.
Lúc đó, Ban Chấp hành Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt gồm có Ngô Thế Lý, Chủ tịch; Nguyễn Trọng Hoàng, Phó Chủ tịch nội vụ; Nguyễn Thị Nhỏ, Phó Chủ tịch ngoại vụ; Trương Trổ, Tổng Thư ký; Nguyễn Hòa, Chi đoàn trưởng Khoa học; Thái Vân Hùng, Chi đoàn trưởng Chính trị kinh doanh; Lê thị Ân, sau đó là Trần thị Huệ, thủ quỹ… Lấy Đoàn Sinh viên Phật tử làm nòng cốt đứng ra kết nối với Ban Đại diện các trường (khoa) của Viện Đại học Đà Lạt, các Nhóm Ái hữu, các trường trung học, Phật tử từ Tỉnh hội đến các Khuôn hội. Được sự hỗ trợ tích cực của năm mặt trận công khai vừa thành lập trước đó là Mặt trận Bảo vệ Văn hóa Dân tộc; Mặt trận Nhân dân Tranh thủ Hòa bình; Mặt trận Cứu đói, Ủy ban Đòi cải thiện chế độ lao tù; Phong trào Phụ nữ Đòi quyền sống và các má các chị tiểu thương chợ Đà Lạt để chuẩn bị lực lượng và điều kiện vật chất cho đợt đấu tranh chống bầu cử độc diễn vào ngày 03/10/1971.
Thư mời do Đoàn SV Phật tử Đà Lạt – một tổ chức công khai do các sinh viên hoạt động bí mật nội thành Đà Lạt nắm quyền điều hành – mời dự cuộc hội thảo phát động đấu tranh chống cuộc bầu cử độc diễn ngày 03/10/1971. Ảnh: Tư liệu
Mọi việc đang tiến hành vận động thì cuối tháng 7/1971, Chủ tịch Ngô Thế Lý đi khỏi Đà Lạt không bàn giao, mất tích không liên lạc được, Văn phòng Đoàn Sinh viên Phật tử bị khóa, không có chìa khóa, không biết con dấu Đoàn đang ở đâu. Ban Chấp hành còn lại họp và cử Nguyễn Trọng Hoàng làm Quyền Chủ tịch Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt để danh chánh ngôn thuận phát động tranh đấu. Phải mất nhiều lần trực tiếp gặp thuyết phục Thầy Thích Minh Tuệ, Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh đồng ý ủng hộ Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt đứng ra tổ chức cuộc đấu tranh chống bầu cử Tổng thống độc diễn của Nguyễn Văn Thiệu. Để thành công trong việc thuyết phục này, chúng tôi phải vận động chị Nguyễn Thục Hiền cùng với chúng tôi đi thuyết phục thầy. Thục Hiền là một sinh viên trường Chính trị Kinh doanh, là thành viên của Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt, chị đẹp, sang trọng là con gái của nhà La Faro - một gia đình tư sản nổi tiếng ở Đà Lạt, chị có tiếng nói rất quan trọng đối với Thầy Minh Tuệ! Được Thầy Minh Tuệ đồng ý, anh em đã phá cửa Văn phòng Đoàn, tìm được con dấu, máy đánh chữ, máy quay ronéo và các dụng cụ văn phòng khác mà anh Lý đã cất giấu.
Giữa tháng 9/1971, Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt phát hành giấy mời hội thảo “Sinh viên với hiện tình đất nước”, “Nhận định về cuộc bầu cử tổng thống sắp tới”. Chị Thục Hiền lái chiếc xe La Dalat đưa các sinh viên đến gặp gỡ nhiều tổ chức, cá nhân trong thị xã trực tiếp mời tham dự hội thảo. Từ ngày 20/9/1971, tại Văn phòng Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt liên tiếp diễn ra các cuộc hội thảo, ngày đầu ít nhưng càng về sau càng đông dần. Ngày 22/9/1971, anh Trương Trổ - Tổng Thư ký được cử đi Sài Gòn để gặp Tổng vụ Thanh Niên và Lực lượng Sinh viên Phật tử Sài Gòn để cùng phối hợp hành động.
Sáng ngày 28/9/1971, tại Giảng đường Chùa Linh Sơn, hội trường lớn cạnh Văn phòng Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt, diễn ra cuộc hội thảo với trên 200 thanh niên, sinh viên, học sinh tham dự, có cả Thầy Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Tuyên Đức Thích Minh Tuệ, các Thầy của một số chùa trong thành phố, có Giáo sư Trần Tuấn Nhậm, Chủ tịch Mặt trận Nhân dân Tranh thủ Hòa Bình Sài Gòn - một nhà tranh đấu nổi tiếng ở Sài Gòn cũng lên dự, có đại diện các mặt trận, các phong trào công khai trong thành phố, một số nhân sĩ, trí thức, nhà văn, nhà báo, các giáo sư (từ dành gọi các thầy giáo dạy trung học, đại học thời đó)… cùng tham gia.
Sau khi trình bày về lý do buổi hội thảo, giới thiệu đại biểu và các thành phần tham dự, người dẫn chương trình giới thiệu anh Trương Trổ, Tổng thư ký Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt đọc diễn văn do Đoàn Thư ký soạn sẵn phân tích tình hình, lên án trò hề độc diễn và kêu gọi đốt Thẻ cử tri tẩy chay bầu cử. Anh Trương Trổ vừa dứt thì Thầy Thích Minh Tuệ, giáo sư Trần Tuấn Nhậm và ông Nguyễn Thúc Biểu - Chủ tịch Mặt trận Nhân dân Tranh thủ Hòa Bình Đà Lạt là những người đầu tiên bước lên đốt Thẻ cử tri, tiếp theo mọi người đều bước ra rút Thẻ cử tri châm lửa, một cảnh tượng chưa từng thấy, thật hoành tráng và nhiều cảm xúc.
Quang cảnh trước Giảng đường Chùa Linh Sơn ngày 28/9/1971. Biểu ngữ căng phía trước giảng đường: “Mỹ Thiệu còn – chiến tranh còn” và “Muốn làm chính trị phải lỳ, muốn xây dân chủ không đi không bầu”. Phóng viên báo Độc Lập đang phỏng vấn một thành viên tổ chức cuộc tranh đấu chống độc diễn… Ảnh: Tư liệu
Từ dưới hội trường Thầy Thích Minh An và vài chục sinh viên chuẩn bị sẵn hô to với giọng đầy xách động “Xuống đường… Xuống đường…”. Anh Nguyễn Hữu Cầu, giáo sư trường nữ trung học Bùi thị Xuân cùng một sinh viên cầm biểu ngữ “Đả đảo trò hề bầu cử độc diễn” chạy trước, hàng trăm sinh viên học sinh cầm biểu ngữ ùa theo. Đoàn biểu tình xuống sân chùa Linh Sơn, ra đường Hàm Nghi (Nguyễn Văn Trỗi) gặp một chốt cảnh sát đã kéo rào kẽm gai bùng nhùng ở cây xăng ngã 3 Hàm Nghi – Phan Đình Phùng, hàng trăm thanh nie6nm sinh viên, học sinh đạp lên rào kẽm gai băng xuống Phan Đình Phùng, khoảng một tiểu đội cảnh sát dùng dùi cui ma trắc đánh quyết liệt nhưng không chặn lại được. Đoàn biểu tình kéo đến Rạp Ngọc Hiệp thì bị khoảng một đại đội cả cảnh sát dã chiến, quân cảnh đeo mặt nạ dàn thành nhiều lớp ném lựu đan cay, bắn phi tiễn, nổ súng trên đầu và tấn công bằng dùi cui ma trắc. Đoàn biểu tình dội ngược trở lại đến hẻm khách sạn Mimosa, kéo lên nhà thờ Tin Lành trên đường Hàm Nghi rồi ra Khu Hòa Bình hát những bài ca tranh đấu, tung truyền đơn kêu gọi lãng khóa, đình công, bãi thị rồi kéo về lại chùa Linh Sơn vào cổng ở ngã 3 Hàm Nghi lên Võ Tánh (Bùi Thị Xuân ngày nay). Cánh này đã có trên 10 học sinh, sinh viên bị bắt, một vài học sinh bị xé khỏi đội hình phải nhảy xuống suối Phan Đình Phùng hoặc cống hở, trốn thoát trở về quần áo ướt mèm và hôi rình vì nước cống!
Trong lúc đó, một cánh khác có hàng trăm sinh viên và rất nhiều học sinh trường Bồ Đề kéo ra cổng trường hướng ra khu Hòa Bình trung tâm thành phố, đến ngã ba Võ Tánh – Hàm Nghi (Bùi Thị Xuân – Nguyễn Văn Trỗi bây giờ) thì bị một lực lượng rất đông các loại cảnh sát với đầy đủ vũ khí và công cụ đàn áp đồng thời kéo nhiều lớp dây kẽm gai bùng nhùng ngang đường, sinh viên, học sinh tìm cách vượt rào kẽm gai bị cảnh sát đàn áp quyết liệt, sinh viên dùng bom xăng tự chế chống trả. Đồng bào kéo đến rất đông, người thì tham gia nhập vào đoàn biểu tình, người thì tò mò đứng xem hoặc vỗ tay hò hét theo làm náo động cả khu vực. Không vượt qua được chốt cảnh sát này, sinh viên dùng loa cầm tay phát lời tuyên truyền tại chỗ chủ yếu là lên án trò hề bầu cử độc diễn phi pháp, kêu gọi đồng bào đình công bãi thị, tẩy chay bầu cử bịp bợm, kêu gọi cảnh sát không đàn áp sinh viên học sinh! Rồi tập thể SVHS vỗ tay hát những bài ca tranh đấu… Những cuộc đấu tranh tại chỗ trên đường phố như vậy ngày nào cũng diễn ra cho đến hết ngày bỏ phiếu 03/10/1971.
Đêm đêm, tổ hành động do anh Nguyễn Thúc Soạn, sinh viên khoa Hóa và anh Nguyễn Tân, học sinh lớp 12 trường Văn Học phụ trách khoảng 10 thanh niên sinh viên học sinh đột kích cướp các bích chương, áp phích vận động bầu cử của liên danh Dân Chủ có hình Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương treo dọc đường, đem về gạch chéo 2 khuôn mặt và sửa chữ DÂN CHỦ thành DÂN CHỬI rồi đột kích treo ra lại đường phố.
Một tiểu đoàn Cảnh sát Dã chiến bao vây cả khu vực chùa Linh Sơn - Giảng đường Linh Sơn và trường trung học Bồ Đề, bao gồm cả 3 tuyến đường chính, Phan Đình Phùng - Hàm Nghi (Nguyễn Văn Trổi) - Võ Tánh (Bùi Thị Xuân). Ảnh: Tư liệu
Nhà cầm quyền Đà Lạt - Tuyên Đức đã điều khoảng một Tiểu đoàn Cảnh sát Dã chiến và cả cảnh sát chìm, cảnh sát nổi bao vây quanh chùa Linh Sơn và trường Bồ Đề. Bên trong có hàng ngàn sinh viên học sinh và đồng bào tổ chức nhiều cuộc đối thoại trực tiếp với cảnh sát qua hàng rào kẽm gai. Đồng thời tổ chức những nhóm nhỏ thoát ra ngã vườn chè phía sau ra đường Mai Hoa Thôn tới ấp Mỹ Lộc rồi đi các nơi thực hiện kế hoạch “Nói cho đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi nói”. Nhiều lúc những người đấu tranh bên trong, tràn xuống đường đẩy cảnh sát xa ra, rồi bị cảnh sát đàn áp lại lui về trụ sở. Có một buổi sáng cảnh sát tràn vào vườn trà trước sân chùa, ở đó có một tổ nữ sinh trường Bùi Thị Xuân do em tên là Thọ phụ trách, một số em có trình độ đai đen karate đã đánh nhau với cảnh sát quyết liệt trong vườn chè, nghe nói em Thọ bị dùi cui đánh văng mất đồng hồ trong vườn trà không biết có tìm được không! Cảnh sát tấn công hòng bắt một số nòng cốt của phong trào, Thầy Minh Tuệ đã cho gióng chuông chùa báo động liên hồi, đồng thời mở loa phóng thanh lên án nhà cầm quyền Đà Lạt xâm phạm nơi tôn nghiêm và kêu gọi đồng bào Phật tử về cứu chùa, bà con kéo tới mỗi lúc một đông, cảnh sát phải tự rút lui…
Từ nóc giảng đường trên đồi cao nhìn xuống phố, sinh viên đã treo biểu ngữ “Mỹ - Thiệu còn, chiến tranh còn” ở phía trước lầu một biểu ngữ với câu “Muốn làm chính trị phải lì (câu này của Nguyễn Văn Thiệu), muốn xây dân chủ không đi không bầu (câu này của sinh viên thêm vào để châm chích Thiệu)”. Ở mặt trước tầng trệt anh em đã cướp bích chương vận động bầu cử của liên danh DÂN CHỦ về gạch chéo mặt 2 ứng cử viên Thiệu - Hương và sửa thành liên danh DÂN CHỬI. Những người tổ chức tranh đấu đã gắn loa sắt công suất lớn phát thanh liên tục những bài viết của các Thầy Mai Thái Lĩnh, Nguyễn Hữu Cầu, nhà văn Thái Lãng, sinh viên Lê thị Quyền… và một số anh chị sinh viên, bình luận về tình hình đất nước, phân tích cái sai trái của cuộc bầu bán mất dân chủ này, kêu gọi tẩy chay bầu cử bằng cách không đi bầu. Những bài viết ca ngợi tình tự dân tộc, ngâm những bài thơ yêu nước, những lời kêu gọi cảnh sát không dùng súng Mỹ bắn vào đồng bào mình… và phát đi những bài ca tranh đấu của phong trào hát cho đồng bào tôi nghe do anh Cơ, anh Nhàn và một số anh em sinh viên học sinh hát. Phía bên kia, Ty Thông tin Chiêu hồi cũng dựng loa công suất lớn trên nóc Lữ Quán Thanh niên chĩa qua bên này, phát liên hồi những bài kích động nhạc nhằm át đi tiếng nói của những người đấu tranh. Ở sân Lữ quán Thanh niên, người ta còn thấy có một chiếc xe thiết giáp đậu lù lù suốt trong những ngày sôi sục.
Sáng ngày 02/10/71, mấy anh em thanh niên đường phố đã phát giác hai nhân viên mật vụ xâm nhập vào hàng ngũ biểu tình đang làm động tác giả ném đá vào cảnh sát nên kêu mọi người bắt trói, có người còn đấm đá nặng tay, một học sinh chạy vào báo cáo anh em bắt được 2 cảnh sát chìm, tôi vừa kịp chạy ra can ngăn không cho đánh, không cho trói, dẫn lên Văn phòng Đoàn hỏi chuyện, họ khai là nhận nhiệm vụ tìm cách tháo cái đuôi của loa sắt để chấm dứt những buổi phát thanh của lực lượng tranh đấu. Số là những thanh niên đường phố từng có nhiều ân oán với cảnh sát nên biết mặt khá nhiều cảnh sát, mật vụ, họ đã tham gia đấu tranh ngay từ đầu. Sau đó, qua trung gian một số Nghị viên thành phố, chính quyền đã đồng ý trao đổi “tù binh”, lúc này cảnh sát đã bắt 17 anh em sinh viên học sinh. Chiều cùng ngày, họ dẫn tất cả người bị bắt đến ngã ba chùa Linh Sơn, lực lượng đấu tranh dẫn hai mật vụ xuống ngã ba và trao trả thành công, anh em reo hò vui hết cỡ.
Lính và cảnh sát tuần tra nghiêm ngặt nhưng khoảng 9 giờ tối đêm 30/9/1971, đội hành động đã đột kích ra khu Hòa Bình đổ xăng đốt bánh xe tải giữa quảng trường, sáng ngày 01/10 một tổ đột kích vào chợ lầu ném hai bom xăng gây chú ý rồi phát truyền đơn kêu gọi đình công bãi thị, treo một bandroll tẩy chay bầu cử ở mặt chợ lầu nhìn lên khu Hòa Bình, nhiều chị tiểu thương giúp sinh viên học sinh phân phát truyền đơn, giúp treo biểu ngữ và hối thúc “Các em chạy nhanh đi, cảnh sát đang tới đàng sau kìa!”. Nhà cầm quyền càng tăng cường kiểm soát, khắp các ngả đường là dây kẽm gai, là xe quân sự, là lính tráng súng đạn rần rần như một trận chiến giữa lòng thành phố. Thành phố vắng ngắt, trường không học, chợ không họp. Ngày bầu cử diễn ra một cách tẻ nhạt, dân ít đi bầu, chỉ có lính tráng và công chức chế độ bị buộc đi bỏ phiếu là chính.
Có thể nói, đi đầu hành động, trực tiếp xông pha là lực lượng thanh niên sinh viên, học sinh, nhưng bên cạnh có sự giúp sức, hậu thuẫn của các bậc cao niên từng trải, là những giáo sư, nhân sĩ trí thức yêu nước, và sự giúp đỡ vật chất phương tiện như xe cộ, máy móc… của các bác, các anh chị trong Gia đình Phật tử có điều kiện, sự che chắn của quí Thầy ở chùa Linh Sơn với một lực lượng Phật tử hùng hậu phía sau như một căn cứ của phong trào tranh đấu. Đặc biệt là lực lượng hậu cần của các má, các chị tiểu thương chợ Đà Lạt rất hiệu quả và đầy cảm động, đêm đêm các má các chị lẻn vào vườn trà phía sau Giảng đường Linh Sơn tiếp tế lương thực, thực phẩm, chanh, túi nilon, khăn… để chống lựu đạn cay, lựu đạn mửa, kể cả một số thuốc men chữa bệnh thông thường. Các má các chị chăm sóc, lo lắng cho các em sinh viên học sinh như con em của mình. Tóm lại sự thành công của phong trào là nhờ tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhiều thành phần trong xã hội mới có thể biến thành lực lượng có sức mạnh lớn.
Cuộc đấu tranh đã làm cho ngày bầu cử Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà tại Đà Lạt diễn ra vắng vẻ và tẻ nhạt trong vòng dây kẽm gai và sự tuần tra canh gác nghiêm ngặt của quân đội, cảnh sát. Ảnh: Tư liệu
Sau cuộc tranh đấu sôi nổi với một hào khí thôi thúc, nhiều nhân tố mới xuất hiện, được đưa vào tổ chức bí mật. Mùa hè năm 1972, chúng ta đánh lớn ở Quảng Trị mà báo chí lúc bấy giờ gọi là mùa hè đỏ lửa! Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu hạ tuổi động viên quân dịch, một số anh em trúng tuổi đi quân trường, Thị ủy Đà Lạt triệu tập chúng tôi thoát ly ra rừng. Một đêm mùa hè, chúng tôi lên đường theo đường dây của chị Lê Thị Quyền đến bàn đạp là vườn nhà của mẹ chị Nguyễn Thị Nhung ở Đất Mới, Hiệp Thạnh, đến khuya thì anh Dương (Thái Kim Đăng) Đội trưởng Đội Công tác Thanh niên Sinh viên Học sinh cùng hai anh em vũ trang len lỏi, tiếp cận bàn đạp và đón vào căn cứ, sau hơn một tháng học tập lần lượt mỗi người được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Việt Nam. Tinh thần anh em xác định là ở lại cầm súng chiến đấu nhưng chú Ba Dư (Lê Văn Phận, Bí thư Thị ủy) nói: “Ngoài này đã có nhiều người cầm súng rồi, không cần thêm các cháu nữa, chiến trường đang cần các cháu là trong lòng thành phố, hãy trở lại trường đại học, học tập và xây dựng phong trào cách mạng ở đó”. Chi đoàn Thanh niên Sinh viên học sinh nội thành được thành lập. Thị ủy Đà Lạt cấp cho mỗi người một giấy hoãn dịch vì lý do gia cảnh (cấp cho người không còn tuổi hoãn dịch vì lý do học vấn) do Giám đốc Nha động viên Quân lực Việt Nam Cộng hòa ký tên đóng dấu hẳn hoi, đây là giấy khống chỉ, văn thư của Thị ủy phải đánh máy hết sức cẩn thận điền thông tin cá nhân của mỗi người theo phông chữ tiếng Anh đúng với mẫu giấy hoãn dịch thật.
Đội Công tác lần lượt đưa anh em ra khỏi rừng vào những đêm tối trời, mỗi người đi một hướng khắp nơi rồi chọn lúc thuận lợi quay trở lại trường. Riêng tôi được đưa về Thị ủy tập huấn kỹ thêm về phương thức hoạt động đô thị và cách nhận diện, cách đối phó với đám tình báo mật vụ địch, một tháng sau mới được các anh trong Đội Công tác đưa ra bàn đạp. Ra khỏi rừng tôi bắt xe đò chạy về quê thăm mẹ khoảng hơn một tuần rồi trở lại trường và bắt đầu nhiệm vụ mới.
BÀI 3: CHUẨN BỊ KHỞI NGHĨA
(LĐ online) - Sau đợt đấu tranh chống độc diễn 03/10/1971, nhiều nhân tố mới xuất hiện được xây dựng thành cốt cán, thành cảm tình cách mạng và thành cơ sở mật trong nội thành chuẩn bị cho những trận chiến đấu tiếp theo.
Một số cốt cán được đón vào căn cứ kháng chiến học tập chính trị, thảo luận về phương thức hoạt động đô thị, kết nạp Đoàn và hình thành Chi đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng Việt Nam (TNNDCMVN) của TNSVHS nội thành. Tình hình đã im ắng, anh em lần lượt trở lại Đà Lạt, lúc này Ngô Thế Lý xuất hiện tranh giành quyền lãnh đạo hòng loại những người tham gia tranh đấu vừa qua ra khỏi Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt. Thị ủy chỉ đạo chúng ta phải dành và giữ lấy quyền lãnh đạo của tổ chức quan trọng này bởi đây là nơi an toàn cho Chi Đoàn TNNDCMVN bí mật nội thành đứng chân, cũng là nơi có thể huy động lực lượng tốt nhất. Một số nhân vật chủ chốt phải rút tên khỏi Ban Chấp hành để giữ vai trò bí mật, cử anh Trương Trổ ra đứng thế công khai ứng cử vị trí Chủ tịch Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt. Trong Đại hội Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt năm 1972, mặc dù Lý và một nhóm người đã tranh thủ được Thầy Chánh đại diện ngồi Chủ tịch đoàn cùng với Lý, và anh ta cố tình tổ chức bầu cử gian lận để loại liên danh Trương Trổ nhưng chúng ta vẫn giành được quyền lãnh đạo Sinh viên Phật tử, trong đó phải kể đến sự quyết liệt và thông minh của anh Nguyễn Hòa đã phá được chiêu trò gian lận của họ. Tết năm 1972 (tết Nhâm Tý), Ngô Thế Lý (vẫn cố chiếm giữ Văn phòng Đoàn) nhân danh Sinh viên Phật tử ra số báo Tin Tưởng xuân Nhâm Tý với chủ đề đỏ rực trên trang bìa một: “ĐỒNG BÀO TA MỘT LÒNG ĐUỔI MỸ - XUÂN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC”, sau đó anh ta biến mất! Chúng tôi nhận định Lý tạo cớ để cảnh sát đánh phá phong trào và chúng sẽ bắt một số anh em chủ chốt.
Quả vậy, sang tháng 04/1972, Trương Trổ bị cảnh sát bắt nhốt hai tháng, chúng hỏi: “Anh có phải là Cộng sản?”, anh trả lời: “Tôi không phải Cộng sản, tôi chỉ là người yêu nước”. Chúng lý sự: “Không Cộng sản sao chống Mỹ?”, anh đối đáp: “Ở Miền Nam không chỉ mình tôi chống Mỹ, bà Ngô Bá Thành, ông Ngô Công Đức và nhiều dân biểu cũng chống Mỹ, các nhà sư các Linh mục cũng chống Mỹ và nhân dân Mỹ cũng chống chính phủ Mỹ gieo rắc chiến tranh ở Việt Nam”. Bao nhiêu đòn tâm lý nữa cũng không khuất phục được anh, cuối cùng chúng phải thả anh với một câu mà cảnh sát bắt buộc anh phải viết và ký tên “Nếu gặp Cộng sản, tôi sẽ báo cho chính quyền Quốc gia” lưu vào hồ sơ mật của cảnh sát. Điều thú vị là anh viết cho cảnh sát trong lúc chính anh là Cộng sản, sau này những người cùng thời đã phải bảo vệ cho sự trong sáng về lý lịch của anh trước các cơ quan đi thẩm tra.
Ngày 27/01/1973, Hiệp định Paris được ký kết, đó là một thắng lợi trên bàn đàm phán của ta, trong lúc chính quyền miền Nam ra sức bưng bít thông tin về Hiệp định Paris, Nguyễn Văn Thiệu liên tục hô hào tràn ngập lãnh thổ, không ngừng bắn, “Không cho bất cứ một tên Việt Cộng nào vào thành ăn phở!”… thì Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt bung ra, tuyên truyền công khai phổ biến Hiệp định Paris về Việt Nam trong TNSVHS và đồng bào Đà Lạt, nội dung của hiệp định và tin tức trên thế giới một phần là từ nhóm Sinh viên Phật tử ở Canada gửi về. Tờ nguyệt san Tin Tưởng của Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt được đổi tên thành tờ Hòa Hợp cho phù hợp với tinh thần Hiệp định Paris về Việt Nam. Thông qua các nhóm ái hữu và các khoa, anh em nội thành đẩy mạnh phong trào “Hát cho dân tôi nghe” với những ca khúc “Dậy mà đi”, “Tự nguyện”,“Hát trên đường tranh đấu”, “Thuyền em đi trong đêm”, “Tình nghĩa Bắc Nam”,“Tiếng hát những đêm không ngủ”…và nhiều ca khúc do sinh viên sáng tác. Những đêm cuối tuần Đoàn Sinh viên Phật tử thường tổ chức những đêm không ngủ với chủ đề “Đốt đuốc lên để soi rõ mặt quân thù”. Những hoạt động như thế đã đi vào lòng người một cách nhẹ nhàng mà sâu đậm, nó hun đúc thêm tinh thần cách mạng của nhiều TNSVHS…
Cảnh sát vẫn ngầm theo dõi Trương Trổ. Đầu năm 1974, Tổ Đảng nội thành nhận được thư của H18 (anh Nguyễn Phan Lũy - Quyền Đội trưởng Đội công tác TNSVHS) do giao liên trực thấu đưa từ căn cứ ra. H18 truyền đạt rằng Thị ủy chỉ đạo Tổ Đảng, Chi Đoàn nội thành phải đưa P10 thoát ly ra rừng theo đường dây bên phía Nam Thị, vì P10 đã bị lộ và đường dây phía Tây Bắc không còn thuận lợi. Tất cả được viết bằng mật mã và chữ chìm giữa 2 hàng chữ của tờ báo Tin Sáng. Sau khi dùng hóa chất và khóa mã dịch thư xong (mật mã này từ cuốn tự điển Việt - Pháp do anh Lũy nghiên cứu dễ thực hiện nhưng khó mở khóa, có thể mang theo cuốn tự điển này luôn bên mình như mang theo công khai mã khóa mà không sợ bị lộ), Tổ Đảng thống nhất phương án tiếp cận và tổ chức đưa anh Trổ (P10) ra rừng. Anh Nguyễn Hòa, bí danh Trần Hàn, bí số C1 nhận nhiệm vụ thực hiện kế hoạch này. Có một chút sai sót khi anh Lũy viết mã nên hai anh em Hoàng và Hòa phải mất khá nhiều thời gian để dịch đi lại cuối cùng thống nhất nhận định đó là Trương Trổ và rồi phải mất nhiều ngày tiếp cận truyền đạt chỉ thị của Thị ủy để anh Trổ tin, mặc dù anh em cùng học, cùng làm việc ở Đoàn Sinh viên Phật tử Đà Lạt rất thân quen nhau. Trước tình hình địch bố phòng dày đặc, mật vụ, cảnh sát chìm nổi khắp nơi, thật giả lẫn lộn... Phương án đưa P10 ra căn cứ kháng chiến thật sự không đơn giản, nhưng Tổ Đảng tin tưởng anh Hòa, một đảng viên xông xáo, thông minh, một con người hài hước rất có duyên, những chuyện to anh thường biến thành chuyện nhỏ một cách nhẹ nhàng mà ai cũng phải chịu anh.
Một đêm đầu mùa hè 1974, C1 đã đưa P10 ra đi. Sáng hôm sau từ bàn đạp trở về anh báo tin hoàn thành nhiệm vụ, anh em vui quá rủ nhau ra quán cà phê Năm ở đường Phan Bội Châu thưởng thức ly cà phê kho với điếu thuốc Basto Luxe mừng thắng lợi. Bỗng dưng mất tích, cảnh sát ra sức truy lùng Trương Trổ, An ninh Thị có một màn nghi binh ngoạn mục (Trương Trổ viết một lá thư về gia đình, Thị ủy cử người cầm thư về Sài Gòn gửi lên để có dấu bưu điện từ Sài Gòn) đã làm cho cảnh sát hướng mũi về Sài Gòn tìm kiếm, trong lúc Trương Trổ đã ở trong căn cứ kháng chiến, giữ được an toàn cho những anh em còn lại ngoài thành và cho gia đình của anh.
Cuối tháng 12/1974 sang đầu tháng 01/1975 quân ta giải phóng Phước Long, mở ra niềm hy vọng mới về ngày giải phóng đến gần. Đội Công tác TNSVHS triệu tập B1 (Nguyễn Trọng Hoàng – bí danh: Nguyên) vào căn cứ học tập tình hình nhiệm vụ mới. Thực ra đến lúc này chưa có cơ sở gì để nói là ta có thể giải phóng miền Nam trong năm tới, và từ cấp trên cũng chưa ai nói tới điều này nhưng có lẽ do lòng mong mỏi mau hết chiến tranh nên nghe tin chiến thắng Phước Long thì ai ai cũng khấp khởi vui mừng cho là sẽ sớm giành thắng lợi. Không khí trong căn cứ của Đội cứ rộn ràng vui và hy vọng, ngay cả trong trao đổi công việc anh em cũng tự nêu ra một số việc cần làm khi tình hình thuận lợi để giải phóng Đà Lạt. Sau gần một tháng làm việc với Đội Công tác, làm việc với các chú lãnh đạo Thị ủy, B1 quay lại thành phố. Buổi liên hoan chia tay B1 được một bữa cơm trắng với cá khô và canh lá giang nấu cá hộp ngon tuyệt! Trong câu chuyện vui, mơ về ngày chiến thắng, anh Lũy (H18) siết chặt vai B1 (Nguyên) nói trong tiếng cười rạng rỡ và đầy cảm xúc “Hẹn gặp nhau ở Đà Lạt nhé”. Tinh thần là vậy, nhưng nội dung tập huấn vẫn chưa có gì mới, vẫn tình hình chung là ta thắng địch thua. Lần này thì mấy anh lính trẻ có vẻ phấn khởi thật, còn những lần trước mỗi lần ngồi nghe cấp trên giải thích về ta thắng địch thua thì chẳng ai dám cãi nhưng khi ra treo võng bên vách đá, giữa rừng các bạn lại nghêu ngao: “Năm qua ăn tết rừng xanh/ Năm nay ăn tết xung quanh rừng già”! Bàn phương pháp tiếp cận nắm diễn biến của địch ở Đà Lạt; nắm vững 5 bước công tác tiếp tục phát hiện nhân tố mới tích cực xây dựng tổ chức bí mật, cài người vào Nhân dân Tự vệ chuẩn bị sẵn sàng khi thời cơ đến là có lực lượng để hành động…
Đội hình hành quân lặng lẽ đi, ra đến bìa rừng thôn Quảng Hiệp khoảng 11 giờ đêm, tất cả đội hình triển khai mỏng bên những gốc thông già và những vồng khoai lang trên mảnh đất dân mới khai phá, chờ trinh sát bám vào bàn đạp. Một lúc sau trinh sát trở ra có cả anh Nguyễn Hòa là sinh viên MPC (Toán lý hóa), bí danh Trần Hàn, bí số C1, là một Đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam, trong tổ Đảng nội thành. Gặp nhau bất ngờ trong đêm trên đường đứa về thành, đứa ra khu, hai đứa mừng quá ôm nhau vật té xuống đám khoai lang, tôi nói: “Kế hoạch đón mầy ra mà tao không biết! Mấy ảnh giữ bí mật ghê quá!”. Hòa nói “Tao cũng không biết mầy về! Tao tưởng sẽ gặp mầy ở Thị (căn cứ Thị ủy), học xong rồi 2 đứa cùng về!”. Sau đó chúng tôi thống nhất với anh Lũy hẹn nhau mồng 4 tết C1 sẽ về lại thành để cùng nhau triển khai công việc cho kịp với tình hình đang diễn biến mau lẹ. Vậy là anh Hòa ra cứ dự tập huấn đợt hai, nhưng học xong Hòa bị sốt rét, rồi bị địch càn, cơ quan phải di chuyển... nên hơn tháng sau anh mới về được! Đợt tập huấn thứ ba, chị Nguyễn Thị Nhung - học sinh lớp 12 trường Bồ Đề là Đoàn viên Thanh niên Nhân dân Cách mạng Việt Nam ra cứ dự đợt tập huấn vào khoảng cuối tháng 3 và chị về thành đúng vào đêm địch trên đường tháo chạy, chị đã tham gia ngay vào các hoạt động khởi nghĩa. Có thể nói Thị ủy Đà Lạt và Đội công tác TNSVHS đã chủ động tổ chức 3 đợt tập huấn cho cán bộ nội thành để chuẩn bị giải phóng Đà Lạt.
Những ngày đầu tháng 3 năm 1975, chiến sự ở Tây Nguyên diễn ra ác liệt, báo chí Sài Gòn và quốc tế hầu như tập trung tất cả sự quan tâm vào tình hình chiến trường Tây Nguyên. Đài phát thanh Sài Gòn vẫn lên gân: “Quân lực Việt Nam Cộng hòa được sự hỗ trợ của không lực đang tái chiếm Ban Mê Thuột”. Trong lúc đó các tờ báo độc lập lại đăng những hàng tít lớn “Ban Mê Thuột thất thủ”. Cùng với tin tức từ những người dân thoát ra khỏi vùng lửa đạn chạy về Đà Lạt và thông tin của những gia đình có người thân hoặc có con em đang học ở Đà Lạt gọi về cho biết thì lực lượng tái chiếm đã bị đánh bật trở lại hoặc bị tiêu diệt phần lớn. Nhà cầm quyền và giới máu mặt ở Đà Lạt lộ rõ sự hoang mang giao động. Ngày 19 và 20/3/1975 các báo ở Sài Gòn và nước ngoài đồng loạt đưa tin về cuộc tháo chạy tan nát trên đường số 7 của Quân đoàn II từ Tây Nguyên xuống với tên gọi mỹ miều của tổng thống Thiệu là cuộc “Di tản chiến thuật”, đã tác động mạnh mẽ vào không khí chính trị ở Đà Lạt. Thành phố trở nên lặng lẽ, bí hiểm, khó hiểu!
Niềm tin chiến thắng trong anh em nội thành lớn hơn bao giờ hết, tin đồn cách mạng lúc thì đã về đến Trại Mát, lúc thì Đa Thiện, lúc thì Cam Ly... được anh em nội thành tung lên và truyền đi nhanh chóng tác động đến các hoạt động trong thành phố. Đầu tiên là trường nữ trung học Bùi Thị Xuân, học sinh đang cắm trại mừng kết thúc học kỳ 1 và kỷ niệm ngày Hai Bà Trưng (6/2 âm lịch tức ngày 18/3/1975) nhưng tổ chức trước một ngày là ngày 5/2 âm lịch tức ngày 17/3/1975. Nghe tin truyền miệng Việt Cộng đã về tới cây số Bốn, tới Đa Thiện… chuẩn bị có đánh lớn, lập tức cả trường nhổ trại ùn ùn chạy về nhà, như một làn sóng có sức lan tỏa mạnh, tiếp theo các trường học khác trong thành phố rùng rùng bỏ chạy, sinh viên đại học thì lãng khóa, chợ thì bãi thị, nhiều ngày liền thành phố náo loạn. Cảnh sát, mật vụ không còn tuần tra bố ráp gắt như trước nữa.
Ngày 20/3/75, Nhạn - một giao liên trực thấu từ căn cứ ra thành đem theo thư chỉ đạo của Thị ủy và Đội Công tác được H18 truyền đạt và 2 nội dung truyền đơn của Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Lâm thời Thị xã Đà Lạt. Thư chỉ đạo của Thị ủy nhận định tình hình hết sức thuận lợi, địch đang thất bại nặng nề ở Tây Nguyên và đang tháo chạy ở nhiều tỉnh, nếu tình hình diễn biến thuận lợi, ta có thể sẽ sớm giải phóng Đà Lạt. Thư chỉ đạo cho Tổ Đảng và Chi Đoàn bên trong làm mấy việc:
- Xác định lại vị trí các cơ quan quân sự và cơ quan chính quyền của địch để sẽ dẫn đường cho bộ đội khi đánh vào thành phố;
- Chú ý bố trí bảo vệ mấy điểm quan trọng trong thành phố đó là: Tòa Hành chính tỉnh, Nha Địa dư, Nguyên tử lực, Bưu điện – viễn thông, Ngân khố, Viện Pasteur, Nhà đèn, Nhà máy nước và các kho gạo để phòng cho cứu đói, cử người lên Bệnh viện vận động, thuyết phục y bác sĩ không di tản, ở lại lo cứu chữa cho thương binh và nhân dân;
- Vận động nhân dân may cờ và treo cờ khi tình hình cho phép. Việc phải làm ngay là in hai nội dung truyền đơn do Thị ủy gửi ra và rải truyền đơn trong thành phố tạo khí thế cho đồng bào và gây hoang mang cho bộ máy cầm quyền cũng như binh lính sĩ quan chế độ Sài Gòn.
Sau khi bàn bạc, không thể dùng máy chữ tại Đà Lạt vì cảnh sát sẽ mò tìm ra ngay, anh em tính dùng máy đánh chữ cũ của chú Quảng Nhẫn đem từ Sài Gòn lên để đánh stencil. Quảng Nhẫn tức Nguyễn Ngọc Khả, người Phú Yên là một tu sĩ Phật giáo đang học trường trung học Bồ Đề, cũng là một thành viên của Đội Công tác nội thành Đà Lạt. Cùng lúc đó Nguyễn Tri Diện cũng đã thuyết phục được ông bố nuôi là Lê Văn Lang đồng ý cho mượn sử dụng chiếc máy đánh chữ ông mới mua từ Nha Trang đem lên chưa đăng ký đang để nhà ở Tam Bố. Diện chạy xe Honda xuống Tam Bố cho chiếc máy vào bao rau lang chở về Đà Lạt, vậy là một lúc có đến hai chiếc máy đánh chữ, một trong hai máy này được giao cho Viện Bảo tàng tỉnh sau giải phóng. Anh Trần Văn Cơ nhận nhiệm vụ đóng một cái bàn in thủ công bằng khung gỗ căng vải mềm, trải giấy stencil đã đánh máy lên khung vải, phết mực in rồi đặt giấy trắng lên vuốt từng tờ một, với mô hình nhà máy in kiểu này Chi Đoàn giao cho hai anh Trần Đình Tài (B7- bí danh: Phương) và Nguyễn Tri Diện (B71) phụ trách in ấn ngay trong nhà trọ của Tri Diện. Hai anh em làm việc lem luốc suốt 3 ngày in được khoảng trên một nghìn tờ truyền đơn với 2 nội dung: Một, Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thị xã Đà Lạt kêu gọi đồng bào không di tản theo địch, ở lại phối hợp cùng các lực lượng cách mạng giải phóng Thị xã, cùng nhau bảo vệ tài sản và tính mạng của đồng bào. Hai, kêu gọi các bạn sĩ quan, binh lính chế độ Sài Gòn không nghe theo lệnh chỉ huy để cùng chết chìm với chúng mà hãy quay súng đứng lên làm binh biến, trở về với cách mạng, với nhân dân. Bà mẹ nuôi của Tri Diện là chủ nhà nơi đặt máy in không biết mấy đứa làm gì nhưng bà đoán đây là việc quan trọng và bí mật nên suốt ba ngày, bà tự giác cảnh giới bằng cách quét sân và cắt tỉa hàng rào hễ có ai vào nhà thì bà chào rất to, khi khách ra về bà cũng chào to cho bên trong nghe, bên ngoài có hai người thả bộ đếm bước dọc đường Cộng Hòa (Lý Tự trọng) lên đến Lữ quán Thanh niên (Trung tâm Thanh thiếu niên Lâm Đồng) có lúc họ ngồi đọc sách dưới gốc cây nói chuyện với nhau nhưng luôn để mắt quan sát xung quanh cảnh giới vòng ngoài cho “nhà máy in bí mật” hoạt động.
Cũng cần nói về các nhân vật: Trần Văn Cơ, người gốc Huế, sinh ra và lớn lên ở Đà Lạt, anh giao thiệp và quen biết khá rộng ở thành phố này, là sinh viên năm thứ tư khoa sinh học, từ phong trào du ca, từ nhóm văn nghệ “Đồng lúa reo” anh bước sang nhạc tranh đấu, hát cho đồng bào tôi nghe với giọng hát xách động xuống đường có một không hai của thời bấy giờ. Anh được kết nạp vào tổ chức bí mật ngay tại Trường Đại học Đà Lạt, trên băng ghế đá của tiểu công viên gần sân bóng đá của trường, với bí danh Trần Đồng Khởi và bí số B6. Trần Đình Tài quê Bình Định là sinh viên văn - sử địa và sinh viên sư phạm, được nhiều người biết đến vì anh khá đẹp trai, người đã dành được nhiều phiếu bầu của nữ sinh viên trường sư phạm trong cuộc tranh cử Ban Đại diện trường, anh tham gia công tác cách mạng bí mật với bí số B7, bí danh Phương. Nguyễn Tri Diện quê Quảng Ngãi, sinh viên năm thứ 2 MPC (toán lý hóa), Chủ tịch Hội ái hữu Nhóm Quảng Ngãi, bí số B71, một thành viên siêng năng, chịu khó, sẵn sàng giúp đỡ người khác, một chú em dễ mến trong nhóm. Họ tiến hành công việc chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa trong tinh thần phấn khởi, chấp hành sự phân công một cách tự giác và nghiêm túc.
Truyền đơn in xong, Tổ Đảng và Chi Đoàn nội thành nhận định tình hình đã thuận lợi hơn, nên không cần chỉ đạo theo lối xâu chuỗi, ngăn cách để giữ bí mật như trước nữa, mà quyết định họp tất cả đầu mối các hệ, các cánh tại nhà số 2A Cộng Hòa (Lý Tự Trọng ngày nay) để phổ biến kế hoạch rải truyền đơn cho nhanh, đáp ứng với tình hình đang khẩn trương. Đúng 5 giờ sáng ngày 27/3/1975, sau hồi còi hụ xả giới nghiêm trên nóc rạp Hòa Bình vừa dứt, thành phố còn dày đặc sương mù, tất cả các thành viên của Đội Công tác TNSVHS bí mật nội thành xuất phát từ những con hẻm đã chọn trước bước ra đường hòa cùng những tốp người đi chợ sớm khéo léo thực hiện nhiệm vụ. Chỉ trong 15 phút theo qui định, truyền đơn đã được rải trên nhiều con đường của Đà Lạt, kể cả có một số truyền đơn được rải trong Trung tâm Cảnh sát Dã chiến do anh Tâm, một cơ sở của chị Lê thị Quyền (A2) thực hiện. (Chị Lê thị Quyền bí số A1, bí danh là Việt Bảo hoặc Sáu, người Nha Trang là sinh viên khoa hóa, một nữ sinh viên xinh đẹp, thông minh và gan dạ, chị được phân công xây dưng cơ sở trong lực lượng giáo viên, nhà văn, một số đối tượng công chức và nắm phong trào Phụ nữ Đòi quyền sống). Anh Cơ (B6) còn có bài độc là không rải hết truyền đơn mà đem vấy một ít đất rồi phát tận tay những người quen với lời giải thích: “Tối qua Việt Cộng rải truyền đơn khắp thành phố, mới lượm được, đọc xem họ nói gì”. Truyền đơn đã đến tay nhiều người dân và công chức, binh lính. Tin đồn Việt Cộng đã có mặt trong thành phố lan truyền đi rất nhanh, một số công chức trốn nhiệm sở, một số binh lính giấu súng, bỏ ngũ trốn về nhà. Những gia đình có máu mặt ồ ạt di tản... Chính quyền hầu như không kiểm soát được tình hình. Ngày 28/3 ta giải phóng Bảo Lộc, tiến lên giải phóng Di Linh, vòng vây vũ trang đang siết dần quanh Đà Lạt, bên trong như đã sẵn sàng nổi dậy. Chiều ngày 30/3/1975, anh Trần Văn Cơ lân la cà phê với đám bạn học cũ đang là những sĩ quan học tại Trường Chiến tranh Chính trị, được chúng nó lộ tin cho biết sẽ có cuộc di tản nhưng chưa rõ thời gian. Sau khi nhận được tin từ anh Cơ, một mặt Chi Đoàn báo tin vào Đội Công tác thông qua hộp thư ở bàn đạp, một mặt ráo riết chuẩn bị kế hoạch cho khởi nghĩa theo thư chỉ đạo của Thị ủy.
Bầu không khí Đà Lạt lúc này vô cùng khẩn trương! Ta vui mừng, khẩn trương chuẩn bị khởi nghĩa! Địch lo lắng, khẩn trương chuẩn bị tháo chạy! Dân hồi hộp, khẩn trương chuẩn bị đón chào một sự thay đổi lớn.